Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014

THAO THỨC 4

THAO THỨC (trang 4 )

Cảm nhận về bài thơ "Hiện Thực"
Trên diễn trình sáng tạo tác phẩm văn nghệ, người nghệ sĩ cùng tâm đắc một điểm chung – một bài thơ, một truyện ngắn, một bản nhạc, một bức tranh hình thành, phô bày phần đặc thù của chính tác giả, người đã đẻ ra tác phẩm.
Sáng tạo, một ước mơ thường tại, sáng tạo nổi bật tính cách cá biệt chính là ước mơ lớn hơn.
Xã hội Hoa Kỳ ngày nay, nghệ sĩ đúng nghĩa chỉ những thành phần chuyên nghiệp, thì giờ dành sáng tác, không vướng bận, chi phối bởi một công việc nào khác. Họ nghiên cứu, tìm tòi và sáng tác. Sáng tác để có những tác phẩm tốt, vượt qua được thử thách và làm thế nào cho quần chúng độc giả tiếp cận với tác phẩm đó càng nhiều càng quý.
Khuynh hướng thời đại, xã hội hiện thực thịnh hành, trải nghiệm từ thực tế, và mức độ thăng tiến của con người, cùng những vấn đề thiết cốt của đời sống được nhiều người quan tâm.
Nhà thơ Seamus Heaney, Ái nhĩ lan, nhận giải văn chương Nobel 1995 đã phát biểu trong buổi lễ, nhắc lại trách nhiệm, vai trò người làm thơ trong xã hội là khám phá mình và sự phát triển tinh thần chính mình…(*)

Hẳn nhiên, “sáng” và “tạo” nghệ thuật đã hàm chứa ý nghĩa tự do. Sáng tạo thiếu tự do, chỉ thuần sản xuất ra những thành phẩm thông dụng phục vụ đời sống vật chất con người, những thành phẩm ra khỏi dây chuyền vận hành hàng loạt, đáp ứng nhu cầu nhất định, không thuộc phạm trù tinh thần, tri thức.
Xã hội thế giới tự do tôn trọng quyền sáng tạo bao nhiêu, thì xã hội cộng sản – vài quốc gia sót lại, đã tước đoạt một cách thô bỉ quyền sáng tạo bấy nhiêu. Không một ai có quyền buộc người nghệ sĩ phải sáng tạo theo khuynh hướng áp đặt, sáng tạo theo dẫn dắt của người khác, không còn giá trị của sáng tạo từ chính mình.
Sáng tạo đa dạng, phong phú bắt nguồn từ nhiều khuynh hướng nghệ thuật khác biệt: tượng trưng, siêu thực, hiện thực, đa đa, trừu tượng, lập thể v.v.. Khuynh hướng sáng tạo tồn tại song hành, tương tác, hợp lực đẩy cánh cửa nghệ thuật mở rộng, đón nhận ánh sáng thiện mỹ chiếu rọi vào.
Người nghệ sĩ sáng tạo cũng đã kiếm tìm khuynh hướng thích hợp, đồng thời cũng đã phối hợp, học hỏi kinh nghiệm, rút tỉa những khuynh hướng kinh qua, tuy thế, khuynh hướng hiện thựchầu như đã trải bày trước mắt xã hội và thời đại mà người nghệ sĩ không thể vô tình quay lưng.
Trên đường đến với thơ, một khung cảnh hiện diện giữa đời thường đủ sắc, âm, hình tượng đã lay gọi cảm xúc của nhà thơ, đẩy vào tận tâm can nhà thơ, niềm bứt rứt, ưu tư:

Trên đường đi hiện thực
Từng cung bậc sắc âm
Đã làm anh thao thức
Và thơ lại trở mình

Dây đàn hiện thực đang rung lên cung điệu, lúc nhẹ buồn, lúc sôi vui; buồn, vui đan quyện, có khi đã va chạm, tiếng cười, tiếng khóc cũng hòa thanh, vỡ òa thành vết rạn của mạch sống chơi vơi, nối liền vùng sâu thẳm tâm thức bằng nỗi đau dằn xoáy:

Mỗi buồn vui va chạm
Tiếng cười khóc bỗng dưng
Từng mạch đời vỡ rạn
Xoáy đau buốt tận cùng

Như vừa chạm mặt thực tại phũ phàng, vừa phải nhìn một hiện tượng bi thảm – bản thể đối diện không thể nào cúi mặt, quay lưng – ngay giờ phút này, giữa mặt bằng xã hội bon chen, xuôi ngược, tất bật, guồng sống lao động vội vã, nhọc nhằn, con người thiếu vắng nụ cười trên môi khô nẻ, lộ ra những tia nhìn trong đôi mắt âu lo, phiền lụy. Bên góc phố, người mẹ đang bán từng giọt máu chính mình, đổi vài đồng bạc nuôi nấng con thơ:

Như chẳng thể quay lưng
Trên nỗi buồn rất thật
Mẹ bán máu nuôi con
Giữa trưa đời tất bật

Dù không chỉ rõ hiện thực, nơi chốn, người đọc cũng hình dung ra được cái xã hội hôm nay trên quê nhà, cố quận, những cảnh tượng quen thuộc, hầu như đã trở nên bình thường, những bi đát, khốn đọa thường trực chụp lên kiếp con người dưới chế độ độc tài cộng sản…
Mẹ bán máu nuôi con và kể sao hết bao nhiêu người con gái thơ ngây, xuân sắc đã phải bán thân nuôi cha mẹ. Bao nhiêu trẻ mồ côi, vất vưởng đầu hè cuối chợ, chờ xin bố thí kẻ qua đường… và hàng đêm, bao hài nhi vừa mở tiếng khóc chào đời, đã phải chia tay người mẹ vì nghèo đói, mẹ mang con bỏ mặc ngoài cửa bệnh viện gần xa, hoặc bên ngoài hàng rào chùa chiền hẻo lánh!
Giữa mặt thật không chối cãi, không thể che giấu ấy, những bộ mặt giả trá trơ trẽn xuất hiện, khoác áo sang cả dệt bằng máu và tiền mồ hôi nước mắt người dân. Lũ xác người, dạ sói chễm chệ trên đau thương khổ nhục của xã hội người. Hưởng thụ và vơ vét, tước đoạt cả đến quyền cơ bản sơ đẳng của con người!!
Nhân chứng của hiện thực, nhà thơ trào dâng ẩn ức, xót xa… những hơi thở vắn dài dung thông cùng thân phận đồng loại. Cái tâm bất lực chăng? Mỏi mệt, suy kiệt đang báo động, trước tha nhân rộn ràng, lạnh nhạt, đã cạn khô từ lâu giọt nước mắt:

Em bảo đừng thở dài
Cho ngày mai đỡ lạnh
Sao tâm anh mệt nhoài
Trong mắt người ráo hoảnh

Em cùng có chung thao thức, suy nghĩ khi phải đối diện bất ưng, bẽ bàng, em lại ái ngại thái độ tỏ bày, và tự nhiên câm nín, nén những hơi thở dài sẻ chia cùng nghịch cảnh. Anh nhạy cảm hơn, tựa hồ căn bệnh dị ứng thời tiết mỗi khi hai luồng khí sắc âm dương thay hướng đổi chiều.
Thực tại chúng ta đang chứng kiến một sân khấu của vở kịch buồn, nỗi buồn dai dẳng không tên gọi, nỗi buồn cay đắng làm biến dạng cả nụ cười, làm tê liệt cả bờ môi con người, đáng lẽ rất cần đến nụ cười tăng lực phần nào đời sống. Thiên hạ, loài người không cười được, dù là cười gượng, bởi rõ ràng ước mơ và khát vọng đã bị dập vùi, chôn chặt:

Rõ rồi em, anh biết
Cười tê liệt bờ môi
Bởi những điều tha thiết
Đã khánh kiệt lời vui

Phải chăng, một ám thị minh chứng cái xã hội bất công, sa đọa, đang chìm sâu vào tận cùng địa ngục.
Hiện thực phơi trải lạnh lùng. Hiện thực của buổi ban sơ hồng hoang, câm lặng. Lẽ vô thường của nhà Phật mở sáng định luật cho ý thức con người… đừng bi quan trong giòng sống, nhưng chuyện vô thường chồng chất lên không gian hiện hữu, gieo rắc cho con người những vấn nạn, những hoài nghi, cùng những chán chường, bất mãn.
Chuyện vô thường – những mũi dao trủy thủ, những mũi dao nhọn hoắt, tàn nhẫn đâm vào tâm huyệt của con người vốn rung động yêu thương. Tận diệt yêu thương giữa cõi đời, đồng nghĩa với hành tinh đang trở về thời hoang rợ, hư vô:

Có phải anh đã gặp
Quá nhiều chuyện vô thường
Như mũi dao cắm phập
Vào khát vọng yêu thương

Sống là yêu thương, cõi đời, một vũ trụ biết yêu thương. Kinh Thánh cho thấy trời đất đã được dựng nên hoàn hảo, bằng thể chất, trong đó tình yêu thương tuyệt diệu cũng được khai mở trog vườn Ê-đen của một cặp vợ chồng.
Tình yêu thương ấy theo chiều dài thời gian đến tận điểm cuối cùng Chung Thủy. Những thế hệ con người được bồi dưỡng, chắp cánh bằng những dòng triết lý rút tỉa từ thực tế xã hội từ thấp đến cao. Ý thức hệ nhà Nho đề cao, mẫu mực: Trung, Hiếu Tiết Nghĩa.
Một dân tộc trải qua hơn bốn nghìn năm văn hiến, lẽ ra phải duy trì được nguồn gốc đạo lý, thu nạp được cái tinh hoa và đào thải những gì là cặn bã, trái ý trời và lòng người. Nhưng tiếc thay, khốn khổ thay, xã hội hiện thực ngày nay dưới tay một chế độ còn lạc hậu, lỗi thời, chạy theo đuôi Mac-xit, vô hình chung phủ nhận tất cả công lao xây dựng đất nước của tiền nhân hào hùng, bất khuất – lấy dân làm gốc, bắt nguồn tư duy tôn trọng bản vị con người. Bóng dáng biểu tượng loài chim Quốc đang phảng phất, ẩn hiện trên sông núi quê nhà, đồng vọng tiếng khóc yêu thương chung thủy:

Em hiểu loài chim Quốc
Khi biết bạn chết rồi
Tự treo mình khóc suốt
Miệng rỉ máu hồng tươi

Cao Nguyên dẫn tình cảm thâm sâu của quý điểu đối với đồng loại, soi sáng và bồi dưỡng cho lòng người tình yêu quê hương, đất nước. Giọt nước mắt của con người trước đọa đày, cùng khốn của tha nhân, giữa vòng vây của xã hội tràn ngập tội ác, cũng là nguồn an ủi, sẻ chia chính đáng.
Cái xã hội, tập đoàn cộng sản đang thống trị tại quê nhà, rêu rao cường điệu tựa bối cảnh thời Gia Tĩnh trong Kim Vân Kiều truyện (Bốn phương vắng lặng hai kinh vững vàng). Thực tế, chế độ ấy đang ngồi trên núi lửa. Mâu thuẫn xã hội gay gắt, sâu rộng; đạo lý kỷ cương sa đọa, bóc lột, tham nhũng tràn lan, pháp luật của riêng phường thảo khấu v.v..
Địa danh tổ quốc Việt Nam nghìn đời vẫn tuyệt vời, khí thiêng linh diệu truyền thống bất khuất rạng ngời sử sách, mà con người dân Việt vẫn chưa thoát ra được vòng vây sắt máu duy vật tàn ác, lỗi thời:

Mặt đất thì tuyệt vời
Người gian nan lắm nỗi

Thấm thía hiện thực cay đắng trên quê hương, Cao Nguyên nhìn vào nhân thế bằng xót thương, nhân ái. Cái tâm của nhà thơ thể hiện bằng những dòng thơ day dứt, khắc khoải, bằng thái độ chân thành của một nhân chứng lương hảo.
Không ai xóa sạch hoàn toàn dấu vết của hiện thực. Hiện thực là cái “nhân” của xã hội lòi ra rõ nét. Qua đó, không chỉ tôn vinh nhân đạo, tư tưởng phổ biến và đang được rao truyền rộng rãi giữa hành tinh trái đất, Cao Nguyên ước vọng, dự phóng con người rồi ra, sớm hoặc muộn cũng sẽ tỉnh thức, hối lỗi, ăn năn, đồng thời cũng được tha thứ.

Có thể nào một tối
Nhìn nhân loại xếp hàng
Chờ phiên mình hối lỗi
Trước những nỗi lầm than

Tính thiện, tình người nở rộ màu vàng rực rỡ, Tàn ác, bất lương sẽ tự diệt. Con người đã thấy lần nữa địa đàng, và lắng nghe lời thiêng Trời Đất rằng “quê hương con người phải xây dựng thành thiên đàng, và trong tâm của mỗi con người cũng tự hóa thành thiên đường vĩnh cửu:

Rồi địa đàng mở cửa
Hoa nhân ái rực vàng
Và tim người bốc lửa
Làm rạng rỡ trần gian!


Diên Nghị

---------------------------
(*) tạp chí Thơ số Mùa Đông 1995.

( Trích trong tuyển tập "Cõi Thơ Tìm Gặp" do Thi Văn Cội Nguồn phát hành tháng 3/ 2009 )



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét